Y học cổ truyền Việt Nam, hay còn gọi là thuốc Nam, có nguồn gốc từ nền văn hóa phong phú và những kinh nghiệm quý báu trong việc chữa bệnh của người Việt. Với hơn 4.000 năm phát triển, ngành y học này đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn đều để lại dấu ấn riêng và làm đa dạng thêm các di sản y học cổ truyền. Từ những bài thuốc dân gian giản dị cho đến các phương pháp điều trị phức tạp, sự phát triển này thể hiện sự giao thoa giữa trí tuệ dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn, hình thành nên một hệ thống y học phong phú và sâu sắc. Thời Cổ Đại (I-III sau CN) Trong thời kỳ này, y học Việt Nam chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian. Người Việt cổ đã khéo léo tận dụng các loại thảo dược tự nhiên như gừng, hành, tỏi và nhiều dược liệu khác để điều trị các bệnh thông thường. Họ chú trọng chủ yếu vào việc điều trị những căn bệnh như sốt rét và các rối loạn tiêu hóa, từ đó tạo ra nền tảng vững chắc cho sự tiến triển của y học cổ truyền trong những giai đoạn tiếp theo. Thời Kỳ Trung Đại (III-XVII sau CN) Trong thời kỳ bị đô hộ bởi các triều đại Trung Hoa, y học phương Đông đã được giới thiệu và du nhập vào Việt Nam, mang theo nhiều kiến thức quý báu. Đây cũng là thời điểm mà các dược liệu bản địa bắt đầu được ghi chép và hệ thống hóa. Đặc biệt, vào thời Lý, hệ thống y tế đã được tổ chức chính thức với sự ra đời của Ty thái y, nhằm đảm bảo sức khỏe cho vua và các quan lại, đồng thời tạo điều kiện cho việc phát triển y học. Thời Kỳ Độc Lập (939-1406) Y học cổ truyền Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ dưới các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý và Trần. Trong giai đoạn này, nổi bật với tác phẩm "Nam dược thần hiệu," ông ghi chép lại hàng trăm loại thảo dược cùng những phương pháp điều trị hữu hiệu. Cuốn sách không chỉ góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng mà còn khẳng định vị trí quan trọng của y học cổ truyền trong văn hóa Việt Nam. Thời Kỳ Lê (1428-1788) Triều đại Lê đã đặc biệt quan tâm đến việc phát triển y học cổ truyền, thể hiện qua sự ra đời của Luật Hồng Đức, trong đó quy định rõ ràng về nghề y và những biện pháp bảo vệ sức khỏe cho người dân. Giai đoạn này chứng kiến sự xuất hiện của nhiều thầy thuốc tài ba, những người đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của y học Việt Nam, làm phong phú thêm kho tàng tri thức và kinh nghiệm chữa bệnh. Thời Kỳ Tây Sơn (1789-1802) Trong thời kỳ Tây Sơn, Nam dược cục được thành lập với mục tiêu nghiên cứu và áp dụng các loại thuốc từ thảo dược địa phương. Sáng kiến này không chỉ góp phần bảo tồn mà còn thúc đẩy sự phát triển của y học cổ truyền trong bối cảnh lịch sử đầy thách thức và biến động. Nhờ vào những nỗ lực này, các phương pháp điều trị truyền thống được củng cố và phát triển, tạo nền tảng vững chắc cho y học cổ truyền Việt Nam. Thời Kỳ Nguyễn (1802-1905) Trong triều đại Nguyễn, y học cổ truyền Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể. Chính quyền tập trung vào việc giữ gìn các bài thuốc cổ truyền thêm vào đó còn chủ động phát triển ngành y bằng cách thành lập các trường lớp đào tạo y học. Họ đã thúc đẩy việc nghiên cứu và triển khai các phương pháp điều trị dựa trên thảo dược. Những thầy thuốc được đào tạo bài bản có cơ hội khám phá và làm việc với nhiều loại cây thuốc quý, từ đó sáng tạo ra những bài thuốc mới với hiệu quả cao hơn. Thời Pháp Thuộc (1884-1945) Trong giai đoạn này, thực dân Pháp đã áp đặt một hệ thống y tế theo mô hình phương Tây, gây ra nhiều khó khăn cho y học cổ truyền. Tuy nhiên, y học cổ truyền vẫn giữ được vị trí của mình, phục vụ chủ yếu cho cộng đồng nông thôn, nơi mà người dân tiếp tục tin tưởng vào những phương pháp chữa bệnh truyền thống. Điều này cho thấy sức sống mạnh mẽ của y học cổ truyền trong bối cảnh bị áp lực và thách thức. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945 đến nay Sau khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam đã đặc biệt chú trọng đến việc phát triển y học cổ truyền. Nhiều tổ chức nghiên cứu và các cơ sở đào tạo đã được thành lập nhằm tạo điều kiện cho sự kết hợp giữa y học cổ truyền và các phương pháp hiện đại. Y học cổ truyền đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ, với hàng nghìn cơ sở y tế và nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu được thiết lập. Chính phủ cũng tích cực thúc đẩy nghiên cứu và phát triển dược liệu nội địa, nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân. Y học cổ truyền không chỉ giữ vai trò là một di sản văn hóa quý giá mà còn là một phần thiết yếu trong hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại. Sự hòa quyện giữa tri thức y học cổ truyền và những phương pháp hiện đại đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của y học Việt Nam trong thời gian tới.
Y học cổ truyền Việt Nam, hay còn gọi là thuốc Nam, có nguồn gốc từ nền văn hóa phong phú và những kinh nghiệm quý báu trong việc chữa bệnh của người Việt. Với hơn 4.000 năm phát triển, ngành y học này đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn đều để lại dấu ấn riêng và làm đa dạng thêm các di sản y học cổ truyền. Từ những bài thuốc dân gian giản dị cho đến các phương pháp điều trị phức tạp, sự phát triển này thể hiện sự giao thoa giữa trí tuệ dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn, hình thành nên một hệ thống y học phong phú và sâu sắc. Thời Cổ Đại (I-III sau CN) Trong thời kỳ này, y học Việt Nam chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian. Người Việt cổ đã khéo léo tận dụng các loại thảo dược tự nhiên như gừng, hành, tỏi và nhiều dược liệu khác để điều trị các bệnh thông thường. Họ chú trọng chủ yếu vào việc điều trị những căn bệnh như sốt rét và các rối loạn tiêu hóa, từ đó tạo ra nền tảng vững chắc cho sự tiến triển của y học cổ truyền trong những giai đoạn tiếp theo. Thời Kỳ Trung Đại (III-XVII sau CN) Trong thời kỳ bị đô hộ bởi các triều đại Trung Hoa, y học phương Đông đã được giới thiệu và du nhập vào Việt Nam, mang theo nhiều kiến thức quý báu. Đây cũng là thời điểm mà các dược liệu bản địa bắt đầu được ghi chép và hệ thống hóa. Đặc biệt, vào thời Lý, hệ thống y tế đã được tổ chức chính thức với sự ra đời của Ty thái y, nhằm đảm bảo sức khỏe cho vua và các quan lại, đồng thời tạo điều kiện cho việc phát triển y học. Thời Kỳ Độc Lập (939-1406) Y học cổ truyền Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ dưới các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý và Trần. Trong giai đoạn này, nổi bật với tác phẩm "Nam dược thần hiệu," ông ghi chép lại hàng trăm loại thảo dược cùng những phương pháp điều trị hữu hiệu. Cuốn sách không chỉ góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng mà còn khẳng định vị trí quan trọng của y học cổ truyền trong văn hóa Việt Nam. Thời Kỳ Lê (1428-1788) Triều đại Lê đã đặc biệt quan tâm đến việc phát triển y học cổ truyền, thể hiện qua sự ra đời của Luật Hồng Đức, trong đó quy định rõ ràng về nghề y và những biện pháp bảo vệ sức khỏe cho người dân. Giai đoạn này chứng kiến sự xuất hiện của nhiều thầy thuốc tài ba, những người đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của y học Việt Nam, làm phong phú thêm kho tàng tri thức và kinh nghiệm chữa bệnh. Thời Kỳ Tây Sơn (1789-1802) Trong thời kỳ Tây Sơn, Nam dược cục được thành lập với mục tiêu nghiên cứu và áp dụng các loại thuốc từ thảo dược địa phương. Sáng kiến này không chỉ góp phần bảo tồn mà còn thúc đẩy sự phát triển của y học cổ truyền trong bối cảnh lịch sử đầy thách thức và biến động. Nhờ vào những nỗ lực này, các phương pháp điều trị truyền thống được củng cố và phát triển, tạo nền tảng vững chắc cho y học cổ truyền Việt Nam. Thời Kỳ Nguyễn (1802-1905) Trong triều đại Nguyễn, y học cổ truyền Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể. Chính quyền tập trung vào việc giữ gìn các bài thuốc cổ truyền thêm vào đó còn chủ động phát triển ngành y bằng cách thành lập các trường lớp đào tạo y học. Họ đã thúc đẩy việc nghiên cứu và triển khai các phương pháp điều trị dựa trên thảo dược. Những thầy thuốc được đào tạo bài bản có cơ hội khám phá và làm việc với nhiều loại cây thuốc quý, từ đó sáng tạo ra những bài thuốc mới với hiệu quả cao hơn. Thời Pháp Thuộc (1884-1945) Trong giai đoạn này, thực dân Pháp đã áp đặt một hệ thống y tế theo mô hình phương Tây, gây ra nhiều khó khăn cho y học cổ truyền. Tuy nhiên, y học cổ truyền vẫn giữ được vị trí của mình, phục vụ chủ yếu cho cộng đồng nông thôn, nơi mà người dân tiếp tục tin tưởng vào những phương pháp chữa bệnh truyền thống. Điều này cho thấy sức sống mạnh mẽ của y học cổ truyền trong bối cảnh bị áp lực và thách thức. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945 đến nay Sau khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam đã đặc biệt chú trọng đến việc phát triển y học cổ truyền. Nhiều tổ chức nghiên cứu và các cơ sở đào tạo đã được thành lập nhằm tạo điều kiện cho sự kết hợp giữa y học cổ truyền và các phương pháp hiện đại. Y học cổ truyền đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ, với hàng nghìn cơ sở y tế và nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu được thiết lập. Chính phủ cũng tích cực thúc đẩy nghiên cứu và phát triển dược liệu nội địa, nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân. Y học cổ truyền không chỉ giữ vai trò là một di sản văn hóa quý giá mà còn là một phần thiết yếu trong hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại. Sự hòa quyện giữa tri thức y học cổ truyền và những phương pháp hiện đại đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của y học Việt Nam trong thời gian tới.
Trước là phủ Tam Đới trấn Sơn Tây, đến thời Minh Mạng (1820-1840) đổi là phủ Vĩnh Tường.
Xứ Đoài có 2 di sản văn hóa phi vật thể:
Có 3 vườn quốc gia: Vườn quốc gia Xuân SơnVườn quốc gia Tam Đảo, Vườn quốc gia Ba Vì.
Xứ Đoài xưa nổi tiếng với những ngôi đình đẹp. Dân gian miền Bắc có câu: "Cầu Nam - chùa Bắc - đình Đoài" có ý nghĩa ca ngợi xứ Sơn Nam nổi tiếng với những cầu cổ có giá trị như: cầu Đông, cầu Dền ở cố đô Hoa Lư, cầu ngói Phát Diệm (Ninh Bình), cầu ngói chợ Lương (Nam Định); xứ Kinh Bắc nổi tiếng với những ngôi chùa như: chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà (Bắc Giang); xứ Đoài nổi tiếng với những ngôi đình đẹp như: đình So (Hoài Đức), đình Tề Lễ (Phủ Lâm Thao), đình Mông Phụ, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến (Hà Tây cũ), đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc).
Sông Ngàn Sâu, đoạn qua Vũ Quang
Hà Tĩnh là một tỉnh của Việt Nam, nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ. Trước đây, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An là một miền đất có cùng tên chung là Hoan Châu (thời Bắc thuộc), Nghệ An châu (thời Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành hai tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam).
Năm 1976, Hà Tĩnh sáp nhập với Nghệ An, lấy tên là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, Quốc hội Việt Nam khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Nghệ Tĩnh, tái lập tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh2 3 4 .
Hà Tĩnh trải dài từ 17°54’ đến 18°37’ vĩ Bắc và từ 106°30’ đến 105°07’ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp hai tỉnh Borikhamxay và Khammuane của Lào, phía Đông giáp Biển Đông5 .
Hà Tĩnh nằm cách thủ đô Hà Nội 340 km về phía nam, ở phía đông dãy Trường Sơn với địa hình hẹp, dốc và nghiêng từ tây sang đông, độ dốc trung bình 1,2%, có nơi 1,8%6 . Lãnh thổ chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam và bị chia cắt mạnh bởi các sông suối nhỏ của dãy Trường Sơn với nhiều dạng địa hình chuyển tiếp, xen kẻ lẫn nhau. Sườn Đông của dãy Trường Sơn nằm ở phía tây, có độ cao trung bình 1500 mét, đỉnh Rào Cọ 2.235 mét, phía dưới là vùng đồi thấp giống bát úp, tiếp nữa là dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển có độ cao trung bình 5 mét và sau cùng là dãy cát ven biển bị nhiều cửa lạch chia cắt. Tỉnh Hà Tĩnh được chia làm bốn loại địa hình cơ bản gồm6 :
Hà Tĩnh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều. Ngoài ra, Hà Tĩnh còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có một mùa đông giá lạnh của miền Bắc; nên thời tiết, khí hậu rất khắc nghiệt. Hàng năm, Hà Tĩnh có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa hè7 :
Sông Ngàn Sâu, đoạn qua Vũ Quang, Hà Tĩnh
Hà Tĩnh hiện có 276.003 ha rừng, gồm 199.847 ha rừng tự nhiên và 76.156 ha rừng trồng, với độ che phủ của rừng đạt 45 %. Rừng tự nhiên thường gặp là kiểu rừng nhiệt đới, vùng núi cao có thể gặp các loại rừng lá kim á nhiệt đới. Rừng trồng phần lớn là thông nhựa. Hà Tĩnh có thảm thực vật rừng đa dạng với hơn 86 họ và 500 loài cây gỗ, gồm nhiều loại gỗ quý như lim xanh, sến, táu, đinh, gụ, pơmu... và nhiều loài thú quý hiếm như hổ, báo, hươu đen, dê sừng thẳng, trĩ, gà lôi và các loài bò sát khác8 .
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km với nhiều cửa sông lớn với khoảng 267 loài cá, thuộc 90 họ, trong đó có 60 loài có giá trị kinh tế cao, 20 loài tôm, nhuyễn thể như sò, mực,...9 . Về khoáng sản, tỉnh có trữ lượng khoáng sản nằm rải rác ở hầu khắp các huyện gồm than đá, sắt, thiếc, phosphorit, than bùn, kaolin, cát thuỷ tinh, thạch anh10 .
Hà Tĩnh có nhiều sông nhỏ và bé chảy qua, con sông lớn nhất là sông La và sông Lam, ngoài ra có con sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Ngàn Trươi, Rào Cái, Tổng chiều dài các con sông khoảng 400 km, tổng sức chứa 13 tỷ m³. còn hồ Kẻ Gỗ, hồ Sông Rác, hồ Cửa Thờ Trại Tiểu, Đập Đồng Quốc Cổ Đạm... ước 600 triệu m³11 .
Hà Tĩnh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 10 huyện, trong đó có với 262 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 11 thị trấn, 21 phường và 230 xã:12
Vòng xoay ở khu vực đường Trần Phú, TP. Hà Tĩnh
Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh Hà Tĩnh đạt gần 1.229.300 người, mật độ dân số đạt 205 người/km²21 Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 196.800 người, chiếm 25% dân số toàn tỉnh22 , dân số sống tại nông thôn đạt 1.032.500 người, chiếm 75%23 . Dân số nam đạt 607.600 người24 , trong khi đó nữ đạt 621.700 người25 . Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 4.8 ‰26 .
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn tỉnh có 31 dân tộc cùng 1 người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh là đông nhất với 1.224.869 người, xếp ở vị trí thứ hai là người Mường với 549 người, người Thái đứng ở vị trí thứ 3 với 500 người, thứ 4 là người Lào với 433 người.13 Ngoài ra, Tỉnh còn có một số dân tộc ít người khác gồm: Tày, Khmer, Hoa, Nùng, Mông, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Cơ Ho, Xơ Đăng, Sán Dìu, Hrê, Raglay, Mnông, Thổ, Khơ Mú, Tà Ôi, Mạ, Giẻ - Triêng, La Chí, Chứt, Lô Lô, Cơ Lao, Cống13 .
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, Toàn tỉnh Hà Tĩnh có 8 Tôn giáo khác nhau chiếm 132.961 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 131.972 người, thứ 2 là Phật giáo có 935 người và các tôn giáo khác là Phật giáo Hòa Hảo 7 người, Hồi giáo Việt Nam 6 người, Minh Lý Đạo 4 người, Tin Lành 18 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa 1 người, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương 5 người13 .
Riêng đạo Công giáo, Hà Tĩnh là một trong 15 tỉnh, thành phố có số lượng tín đồ đạo Công giáo đông nhất toàn quốc, hiện nay có 6 giáo hạt, 58 giáo xứ, 231 họ đạo, 3 tu viện thuộc dòng Mến Thánh giá Vinh, ngoài ra còn một số cơ sở, nhóm nữ tu Dòng Mến Thánh giá, Dòng Bác ái. Hiện nay toàn tỉnh có 56 linh mục và hơn 150 nữ tu ở các cơ sở dòng, nhóm nữ tu, có 149.273 giáo dân, chiếm 11,5% dân số, có 131/262 xã, phường, thị trấn có đông giáo dân và có 461 khu dân cư vùng giáo, trong đó 114 vùng giáo toàn tòng.27
Hà Tĩnh có Khu kinh tế Vũng Áng được xem là khu kinh tế ven biển trọng điểm quốc gia, với sản phẩm công nghiệp chủ lực là thép (22,5 triệu tấn), nhiệt điện (7.000MW) và dịch vụ cảng nước sâu với 59 cầu cảng cho tàu từ 5 vạn đến 30 vạn tấn cập bến28 .
Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh) từ thời nhà Hậu Lê. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng - sông Lam. Hai tỉnh này có cùng phương ngữ- tiếng Nghệ, cùng kho tàng văn hóa dân gian, cùng ca câu hò ví dặm, cùng uống chung dòng nước sông Lam.
Hà Tĩnh là một vùng đất nằm trên dải đất miền Trung, phía nam sông Lam, thiên nhiên không mấy ưu đãi, nhưng lại được coi là nơi "địa linh nhân kiệt"[1]. Nhiều làng quê ở Hà Tĩnh nổi tiếng văn chương, khoa bảng và kiên cường. Nhiều anh hùng, danh nhân Việt Nam xuất thân từ Hà Tĩnh.
Núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn cùng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và sông La, sông Lam là nguồn cảm hứng cho các thế hệ thi nhân, nhạc sĩ. Núi Hồng Lĩnh là một trong số các địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế.
Phía đông Hồng Lĩnh là làng Tiên Điền của đại thi hào Nguyễn Du, tác giả của Truyện Kiều. Phía tây nam núi Hồng lĩnh là làng "Bát cảnh Trường Lưu" của dòng họ Nguyễn Huy. Hai làng văn hiến ở hai sườn đông và tây núi Hồng Lĩnh ấy đã tạo nên một Hồng Sơn văn phái với những tác phẩm tiêu biểu như Hoa tiên (của Nguyễn Huy Tự), Mai Đình mộng ký (của Nguyễn Huy Hổ), Truyện Kiều.
Các làng Thu Hoạch, Trường Lưu, Tiên Điền, Uy Viễn, Đông Thái, Yên Hội, Gôi Mỹ, Thần Đầu, Trung Lễ, Bùi Xá, Ích Hậu, Trung Lương, Ân Phú... nổi danh về truyền thống học hành, khoa bảng và văn chương
Hà Tĩnh còn có nhiều làng văn nghệ nổi tiếng trong vùng như: làng hát ca trù Cổ Đạm, chèo Kiều Xuân Liên, hát ví phường vải Trương Lưu, hò ví dặm Đan Du, Phong Phú... Nhiều làng nền nếp, phong lưu có nhiều lễ hội, hương ước, phong tục như: Kim Chùy, Hội Thống, Đan Trường, Kim Đôi, Phù Lưu Thượng... Các làng truyền thống với những giọng hò nổi tiếng quanh núi Hồng Lĩnh, ven dòng sông Lam, sông La, sông Ngàn Sâu, sông Ngàn Phố đã để lại nhiều thơ văn và trước tác.
Hà Tĩnh là tuyến giao thông huyết mạch, có đường Quốc lộ 1A đi qua với chiều dài 127,3 km (xếp thứ 3 trong các tỉnh có Quốc lộ 1A đi qua), 87 km đường Hồ Chí Minh và tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy dọc theo hướng Bắc Nam với chiều dài 70 km. Ngoài ra, tỉnh còn có đường Quốc lộ 8A chạy sang Lào qua cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo với chiều dài 85 km, Quốc lộ 12 dài 55 km đi từ cảng Vũng Áng qua Quảng Bình đến cửa khẩu Cha Lo sang Lào và Đông Bắc Thái Lan29 . Hà Tĩnh còn có 137 km bờ biển với nhiều cảng và cửa sông lớn.