Nước Đức Bị Chia Cắt

Nước Đức Bị Chia Cắt

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Thế Chiến II kết thúc cũng là lúc chấm dứt sự cai trị của Đế quốc Nhật Bản. Bán đảo Triều Tiên bị chia cắt thành hai vùng chiếm đóng bởi quân đội Liên Xô và Hoa Kỳ. Năm 1948, hai quốc gia có chủ quyền được hình thành ở hai vùng này là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên, Bắc Triều Tiên hoặc Bắc Hàn) và Đại Hàn Dân Quốc (còn gọi là Hàn Quốc, Đại Hàn, Nam Hàn hoặc Nam Triều Tiên). Trong một đề nghị bị hầu hết người dân trên bán đảo phản đối, Hoa Kỳ và Liên Xô đồng ý tạm thời chiếm đóng bán đảo này như một ủy thác với các khu vực kiểm soát phân giới dọc theo vĩ tuyến 38. Mục đích của việc ủy thác này là thiết lập một chính phủ lâm thời Triều Tiên mà sẽ trở thành "tự do và độc lập theo tiến trình phù hợp". Mặc dù cuộc bầu cử đã được dự kiến, hai siêu cường ủng hộ các nhà lãnh đạo khác nhau và hai nước trên thực tế đã được thành lập, mỗi nước tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ bán đảo.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Thế Chiến II kết thúc cũng là lúc chấm dứt sự cai trị của Đế quốc Nhật Bản. Bán đảo Triều Tiên bị chia cắt thành hai vùng chiếm đóng bởi quân đội Liên Xô và Hoa Kỳ. Năm 1948, hai quốc gia có chủ quyền được hình thành ở hai vùng này là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên, Bắc Triều Tiên hoặc Bắc Hàn) và Đại Hàn Dân Quốc (còn gọi là Hàn Quốc, Đại Hàn, Nam Hàn hoặc Nam Triều Tiên). Trong một đề nghị bị hầu hết người dân trên bán đảo phản đối, Hoa Kỳ và Liên Xô đồng ý tạm thời chiếm đóng bán đảo này như một ủy thác với các khu vực kiểm soát phân giới dọc theo vĩ tuyến 38. Mục đích của việc ủy thác này là thiết lập một chính phủ lâm thời Triều Tiên mà sẽ trở thành "tự do và độc lập theo tiến trình phù hợp". Mặc dù cuộc bầu cử đã được dự kiến, hai siêu cường ủng hộ các nhà lãnh đạo khác nhau và hai nước trên thực tế đã được thành lập, mỗi nước tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ bán đảo.

Can thiệp của Liên Hợp Quốc và sự hình thành các chính phủ riêng biệt

Với việc Hội đồng Ủy ban Phối hợp không đạt được tiến triển, Hoa Kỳ đưa vấn đề này tới Liên Hợp Quốc vào tháng 9 năm 1947. Liên Xô phản đối sự can thiệp của Liên Hợp Quốc. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn hơn đối với Liên Hợp Quốc so với Liên Xô.[32] Liên Hợp Quốc đưa ra giải pháp vào ngày 14 tháng 11 năm 1947, tuyên bố rằng những cuộc bầu cử tự do nên được tổ chức, quân đội nước ngoài nên rút lui, và một ủy ban của Liên Hợp Quốc tại Triều Tiên, Ủy ban Liên Hợp Quốc Tạm thời tại Triều Tiên (UNTCOK) nên được thành lập. Liên Xô tẩy chay việc bầu cử và không xem xét đây là một giải pháp, cho rằng Liên Hợp Quốc sẽ không đảm bảo được những cuộc bầu cử công bằng. Vì Liên Xô không hợp tác, họ quyết định chỉ tổ chức bầu cử dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc tại phía nam.[33][34] Một số đại biểu UNTCOK cảm thấy điều kiện tại phía nam thuận lợi một cách không công bằng cho những ứng cử viên cánh hữu, nhưng ý kiến này đã bị bác bỏ.[35]

Quyết định tiến hành các cuộc bầu cử riêng rẽ đã không được nhiều người Triều Tiên ưa chuộng, họ đã nhìn nhận nó như một khởi đầu đầu cho sự chia cắt đất nước. Các cuộc đình công phản đối quyết định bắt đầu vào tháng 2 năm 1948.[20] Vào tháng 4, người dân đảo Jeju khởi nghĩa chống lại sự phân chia đang nổ ra tại đất nước. Quân đội Nam Triều Tiên được gửi đến để dập tắt cuộc nổi loạn. Theo ước tính hàng chục nghìn người dân trên đảo đã bị giết, 70% số làng bị đốt bởi quân đội Nam Triều Tiên.[36] Cuộc nổi dậy đã bùng lên trở lại với sự nổ ra của Chiến tranh Triều Tiên.[37]

Vào tháng 4 năm 1948, một hội nghị của các tổ chức từ miền nam và miền bắc gặp nhau tại Bình Nhưỡng, nhưng hội nghị này không đưa ra được kết quả nào. Những nhà chính trị gia miền nam Kim Koo và Kim Kyu-sik tham dự hội nghị và tẩy chay các cuộc bầu cử tại miền nam, cũng giống như các chính trị gia và các đảng khác.[38][39] Kim Koo bị ám sát vào năm tiếp theo.[40]

Vào ngày 10 tháng năm 1948, miền Nam tổ chức một cuộc bầu cử. Vào ngày 15 tháng 8, "Đại Hàn Dân Quốc" chính thức tiếp nhận quyền lực từ quân đội Hoa Kỳ, với Syngman Rhee là tổng thống đầu tiên. Tại miền Bắc, "Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên" được thành lập vào ngày 9 tháng 9, với Kim Nhật Thành làm thủ tướng.

Ngày 12 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chấp nhận báo cáo của UNTCOK và tuyên bố Cộng hòa Hàn Quốc là "chính phủ hợp pháp duy nhất tại Triều Tiên".[41]

Sự chia cắt của Triều Tiên sau hơn một thiên niên kỷ thống nhất, được xem là tình trạng đang tranh cãi và tạm thời bởi cả hai chính quyền. Từ năm 1948 cho tới đầu cuộc nội chiến ngày 25 tháng 6 năm 1950, lực lượng vũ trang của mỗi bên tham gia vào một loạt các xung đột đẫm máu dọc theo biên giới. Năm 1950, những xung đột này leo thang đột ngột khi lực lượng CHDCND Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc, gây ra chiến tranh Triều Tiên. Liên Hợp Quốc đã can thiệp để bảo vệ miền Nam, gửi đến một lực lượng do Hoa Kỳ lãnh đạo. Khi đã chiếm được miền nam, CHDCND Triều Tiên đã cố gắng thống nhất Hàn Quốc dưới chế độ của nó, bắt đầu quốc hữu hóa công nghiệp, cải cách ruộng đất, và khôi phục các Ủy ban nhân dân.[42]

Mặc dù sự can thiệp của Liên Hợp Quốc đã được hiểu là để khôi phục lại biên giới tại vĩ tuyến 38, Syngman Rhee lập luận rằng cuộc tấn công của miền Bắc đã xóa bỏ ranh giới. Tướng tự Tổng tư lệnh quân đội Liên Hợp Quốc, Đại tướng Hoa Kỳ Douglas MacArthur tuyên bố ông muốn thống nhất đất nước Triều Tiên, chứ không chỉ là đẩy lui các lực lượng Triều Tiên về phía bên kia biên giới.[43] Tuy nhiên, miền Bắc đã chiếm được 90% miền Nam cho tới khi một cuộc phản công do Hoa Kỳ lãnh đạo diễn ra. Khi lực lượng Triều Tiên bị đuổi khỏi miền Nam, lực lượng Nam Triều Tiên đã vượt qua vĩ tuyến 38 vào ngày 1 tháng 10, và quân của Hoa Kỳ - Liên Hợp Quốc tiến đến sau đó một tuần. Điều này bất chấp những cảnh báo từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa rằng họ sẽ can thiệp nếu quân đội Mỹ vượt qua ranh giới song song - vĩ tuyến 38.[44] Khi đã chiếm được miền Bắc, Hàn Quốc cố gắng thống nhất đất nước dưới chế độ của họ, với Cảnh sát quốc gia Hàn Quốc thực thi việc tuyên truyền chính trị.[45] Khi lực lượng Hoa Kỳ tiến tới phía bắc, Trung Quốc đã phát động một cuộc phản công và đẩy họ trở lại miền Nam.

Năm 1951, khi tiền tuyến ổn định gần vĩ tuyến 38, và cả hai bên bắt đầu xem xét về một cuộc đình chiến. Tuy nhiên, Rhee đã yêu cầu chiến tranh tiếp tục cho đến khi Triều Tiên được thống nhất dưới sự lãnh đạo của ông.[46] Phía Cộng sản đã ủng hộ một đường biên giới dựa trên vĩ tuyến 38, nhưng Liên Hợp Quốc ủng hộ một đường biên giới dựa trên lãnh thổ của mỗi bên, có sức thuyết phục hơn, và đường biên giới này đã chiếm ưu thế.[47] Thỏa thuận Đình chiến của Triều Tiên đã được ký sau ba năm chiến tranh. Hai bên đã đồng ý tạo ra một vùng đệm rộng bốn km giữa hai quốc gia, được biết đến là Khu phi quân sự Triều Tiên (DMZ). Biên giới mới này phản ánh lãnh thổ của mỗi bên khi chiến tranh kết thúc, vượt qua đường vĩ tuyến 38 theo đường chéo. Rhee từ chối chấp nhận đình chiến và tiếp tục thúc giục việc thống nhất đất nước bằng vũ lực.[48]

Mặc dù cả hai bên đã nỗ lực để thống nhất đất nước, cuộc chiến đã kéo dài sự phân chia Triều Tiên và dẫn tới một liên minh vĩnh viễn giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ, và một lực lượng thường trực của quân đội Hoa Kỳ ở miền Nam.[49]

Như đã được ấn định bởi các điều khoản của Thỏa thuận Đình chiến, Hội nghị Geneva được tổ chức năm 1954 về vấn đề Triều Tiên. Mặc dù có nhiều nỗ lực của các quốc gia liên quan, hội nghị đã kết thúc mà không có được tuyên bố về một Triều Tiên thống nhất.

Thỏa thuận đã thành lập một Ủy ban Trung lập Giám sát Các quốc gia (NNSC) để giám sát Thỏa thuận Đình chiến. Kể từ năm 1953, các thành viên của Lực lượng Vũ trang Thụy Sĩ[50] và Thụy Điển[51] đã là thành viên của NNSC và có trụ sở gần DMZ.

Kể từ trận chiến, Triều Tiên vẫn bị chia cắt dọc theo DMZ. Cả hai miền Bắc và Nam vẫn ở trong tình trạng mâu thuẫn với những chế độ đối nghịch và cả hai đều tuyên bố mình là chính phủ hợp pháp của cả nước. Các cuộc đàm phán lẻ tẻ đã không đạt được tiến triển về việc thống nhất đất nước.[52]

Cụ thể theo báo cáo của Ban Chỉ huy PCTT&TKCN tỉnh Lào Cai mua lũ xảy ra từ đên 30/9 đến sáng ngày 1/10 đã làm 37 ngôi nhà bị ngập nước, rất may người dân chủ động nên không có thiệt hại về người và tài sản. Mưa lũ còn gây ngập úng và hư hại 43 ha rau và hoa màu của người dân.

Về giao thông, Đường Cứu hộ cứu nạn xã từ Trịnh Tường đi Y Tý (đoạn thôn Nà Lặc, Tùng Chỉn xã Trịnh Tường) của huyện Bát Xát mới khắc phục tạm thời sau bão số 3; tuy nhiên, do mưa lớn nên tiếp tục bị lũ cuốn trôi gay sụt sạt, xói lở nhiều đoạn, hiện tại các phương tiện không lưu thông được.

Đường tỉnh lộ 155 đoạn xã Mường Hum bị sạt taluy dương các phương tiện không lưu thông được. tại xã Cốc Mỳ, sạt lở tuyến đường Nậm Chỏn đi Tả Câu Liềng, Séo Phìn Than và Dìn Pèng khoảng 1.000m3. Trôi ngầm đắp tạm đi thôn Nậm Chỏn.

Ngay sau khi nhận được thông tin Ban Chỉ huy PCTT và TKCN huyện Bát Xát đã chỉ đạo UBND các xã, thị trấn triển khai ngay Phương án phòng chống thiên tai “theo cấp độ rủi ro thiên tai”. Các xã, thị trấn đã tiến hành sơ tán các hộ trong vùng thiên tai đến nơi an toàn như nhà văn hoá, trường học (số lượng người sơ tán khoảng 1300 người). Chỉ đạo khắc phục ngay các điểm ngập úng tại xã Quang Kim, huy động máy móc để thông tuyến đường tỉnh lộ 155; cảnh báo cho nhân dân không cho phương tiện đi lại tại tuyến đường cứu hộ cứu nạn khu vực xã Trịnh Tường. Tiếp tục cảnh báo và phân luồng giao thông tại xã Quang Kim khi nước dân.

Còn tại sông Hồng đoạn chảy qua tỉnh Lào Cai, hiện nay, do ảnh hưởng của mưa lớn trên diện rộng phía thượng nguồn; lũ trên sông Hồng tại Lào Cai và Bảo Hà đang lên nhanh; lũ trên suối Nhù tại Văn Bàn đang lên chậm. Mực nước lúc 08h00 ngày 01/10/2024, trên sông Hồng tại Lào Cai là 80,60m, trên BĐI là 0,60m; sông Hồng tại Bảo Hà là 53,29m dưới BĐI là 1,71m. Suối Nhù là 86,35m dưới BĐI là 2,15m.

Cảnh báo, lũ trên các sông, suối tiếp tục lên nhanh, trong đợt lũ này, đỉnh lũ trên sông Hồng tại Lào Cai ở mức xấp xỉ BĐII là 82,00m xuất hiện vào trưa nay ngày 01/10, lũ trên sông Hồng tại Bảo Hà tiếp tục lên nhanh, đỉnh lũ khả năng đạt BĐII, xuất hiện vào chiều tối nay 01/10, biên độ lũ lên từ 3,5- 4,50m; Suối Nhù tại văn Bàn đỉnh lũ khả năng đạt đỉnh ở mức trên BĐI, biên độ lũ lên từ 3,5- 4,5m. Nguy cơ cao xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất trên các khu vực trong tỉnh, đặc biệt tại các huyện: Bát Xát, TX Sa Pa, Bảo Yên, Văn Bàn, Bảo Thắng, Bắc Hà, thành phố Lào Cai.

Tiệp Khắc được thành lập sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã vào cuối Thế chiến thứ nhất. Năm 1918, một cuộc họp diễn ra tại Pittsburgh, Pennsylvania, Hoa Kỳ, tại đó Tổng thống Tiệp Khắc tương lai Tomáš Garrigue Masaryk và các đại diện khác của Séc và Slovakia đã ký Hiệp định Pittsburgh, trong đó hứa hẹn một quốc gia chung bao gồm hai quốc gia bình đẳng: Slovakia và Séc. Ngay sau đó, ông và Edvard Beneš đã vi phạm thỏa thuận bằng cách thúc đẩy sự thống nhất lớn hơn tạo thành một quốc gia duy nhất.

Một số người Slovakia không ủng hộ sự thay đổi này, và vào tháng 3 năm 1939, với áp lực từ Adolf Hitler, Cộng hòa Slovakia thứ nhất được thành lập như một quốc gia vệ tinh của Đức với chủ quyền hạn chế. Sự liên kết với Liên Xô sau Thế chiến II đã giám sát việc thống nhất 2 nước trở thành Cộng hòa Tiệp Khắc thứ ba.

Năm 1968, Luật Liên bang Hiến pháp khôi phục lại cấu trúc liên bang chính thức theo hình thức của năm 1917, nhưng trong Thời kỳ Bình thường hóa vào những năm 1970, Gustáv Husák, mặc dù bản thân là người Slovakia, đã trao lại phần lớn quyền kiểm soát cho Praha. Cách tiếp cận đó đã khuyến khích sự phát triển trở lại của chủ nghĩa ly khai sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Tiệp Khắc sụp đổ.

Đến năm 1991, GDP bình quân đầu người của Cộng hòa Séc cao hơn Slovakia khoảng 20%. Việc chuyển các khoản thanh toán từ ngân sách Séc sang Slovakia, vốn là quy định trước đây, đã bị dừng vào tháng 1 năm 1991.

Nhiều người Séc và người Slovakia mong muốn sự tồn tại tiếp tục của một nước Tiệp Khắc liên bang. Tuy nhiên, một số đảng lớn của Slovakia ủng hộ một hình thức chung sống lỏng lẻo hơn và Đảng Quốc gia Slovakia chọn một Slovakia hoàn toàn độc lập và có chủ quyền. Trong một vài năm, các đảng phái chính trị lại nổi lên, nhưng các đảng phái của Séc có rất ít hoặc không có mặt ở Slovakia và ngược lại. Để có một nhà nước thực sự hoạt động, chính phủ yêu cầu Praha tiếp tục kiểm soát, nhưng người Slovakia tiếp tục yêu cầu phân quyền.[1]

Năm 1992, Cộng hòa Séc thực hiện bầu Václav Klaus và những chính trị gia khác, những người này yêu cầu một liên bang chặt chẽ hơn ("liên bang khả thi") hoặc hai quốc gia độc lập. Vladimír Mečiar và các chính trị gia hàng đầu khác của Slovakia muốn có một liên minh kiểu liên bang. Cả hai bên đã mở các cuộc đàm phán thường xuyên và căng thẳng vào tháng 6. Vào ngày 17 tháng 7, quốc hội Slovakia đã thông qua tuyên bố độc lập của quốc gia Slovakia. Sáu ngày sau, Klaus và Mečiar đồng ý giải tán Tiệp Khắc tại một cuộc họp ở Bratislava. Tổng thống Tiệp Khắc Václav Havel từ chức thay vì giám sát việc giải thể quốc gia, điều mà ông đã phản đối.[2] Trong một cuộc thăm dò dư luận vào tháng 9 năm 1992, chỉ có 37% người Slovakia và 36% người Séc ủng hộ việc giải thể.[3]

Mục tiêu của các cuộc đàm phán chuyển sang đạt được sự phân chia hòa bình. Sự phân chia hòa bình được ưu tiên vì quá trình này diễn ra song song với sự tan rã một cách bạo lực của Nam Tư (một nhà nước liên bang xã hội chủ nghĩa khác gồm các nhóm người Slavơ được thành lập sau khi Áo-Hungary tan rã) đã thúc đẩy giới tinh hoa tránh sự bùng phát như vậy ở Tiệp Khắc.[4] Vào ngày 13 tháng 11, Quốc hội Liên bang đã thông qua Đạo luật Hiến pháp 541, trong đó giải quyết việc phân chia tài sản giữa các vùng đất của Séc và Slovakia.[5] Với Đạo luật Hiến pháp 542, được thông qua vào ngày 25 tháng 11, các chính trị gia đồng ý giải thể Tiệp Khắc vào ngày 31 tháng 12 năm 1992.[5]

Sự chia cắt này diễn ra mà không có bạo lực và do đó được cho là mang tính "nhung lụa", giống như "Cách mạng Nhung", mà đã xảy ra trước đó và được thực hiện bằng các cuộc biểu tình và hành động ôn hòa quy mô lớn. Ngược lại, các cuộc phân chia hậu cộng sản khác (chẳng hạn như tại Liên Xô và Nam Tư) đều tạo thành các xung đột bạo lực. Tiệp Khắc là quốc gia duy nhất trước đây thuộc khối phương Đông đã phân chia hoàn toàn trong hòa bình. Trong những năm tiếp theo, khi nền kinh tế Slovakia gặp khó khăn, người Slovakia bắt đầu mô tả việc giải thể như một "cuộc ly hôn mài mòn".[6]

Có một số lý do đã được đưa ra cho việc giải thể Tiệp Khắc, với các cuộc tranh luận chính tập trung vào việc liệu việc giải thể là không thể tránh khỏi hoặc liệu việc giải thể xảy ra cùng với hoặc thậm chí trái ngược với các sự kiện xảy ra giữa Cách mạng Nhung năm 1989 và sự kết thúc của nhà nước Tiệp Khắc vào năm 1992.[7]

Những người tranh luận từ lập trường tất yếu có xu hướng chỉ ra sự khác biệt giữa hai quốc gia, có từ thời Đế quốc Áo-Hung, và các vấn đề khác. Có những khác biệt về sắc tộc giữa người Séc và người Slovakia, chẳng hạn như các vấn đề với nhà nước chung trong thời cộng sản, sự thành công của nhà nước ở các vùng đất của Séc và sự thất bại của nó ở vùng đất Slovakia mà vẫn dẫn đến việc áp dụng chủ nghĩa cộng sản vì người Séc có ảnh hưởng hơn trong việc điều hành nhà nước hơn người Slovakia, và hiến pháp năm 1968 được quyết định với sự phủ quyết của thiểu số Slovakia.[8]

Những người cho rằng các sự kiện từ năm 1989 đến năm 1992 đã dẫn đến sự tan rã của các yếu tố quốc tế như sự ly khai của các quốc gia vệ tinh của Liên Xô, sự thiếu hụt phương tiện truyền thông thống nhất giữa Séc và Slovakia, và quan trọng nhất là hành động của các nhà lãnh đạo chính trị của cả hai quốc gia, chẳng hạn như những bất đồng giữa Thủ tướng Klaus và Mečiar.[9][10]

Vì quốc huy của Tiệp Khắc là một kết hợp của các quốc huy khu vực địa lý lịch sử hình thành đất nước này, mỗi nước cộng hòa chỉ đơn giản giữ lại biểu tượng của riêng mình: con sư tử của Séc và chữ thập kép của Slovakia. Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng cho quốc ca Tiệp Khắc song ngữ gồm hai phần nhạc riêng biệt, khổ thơ tiếng Séc Kde domov můj và khổ thơ tiếng Slovak Nad Tatrou sa blýska. Tranh chấp chỉ xảy ra đối với quốc kỳ Tiệp Khắc. Trong các cuộc đàm phán năm 1992 về các chi tiết của việc giải thể Tiệp Khắc, theo yêu cầu của Vladimír Mečiar và Václav Klaus, một điều khoản cấm sử dụng các biểu tượng nhà nước của Tiệp Khắc bởi các quốc gia kế nhiệm đã được đưa vào luật hiến pháp về việc giải thể Tiệp Khắc.[11]

Từ năm 1990 đến năm 1992, cờ đỏ và trắng của Bohemia (chỉ khác quốc kỳ Ba Lan về tỷ lệ màu sắc) chính thức là quốc kỳ của Cộng hòa Séc. Cuối cùng, sau khi tìm kiếm các biểu tượng mới, Cộng hòa Séc đã đơn phương quyết định bỏ qua luật hiến pháp về việc giải thể Tiệp Khắc (Điều 3 của Luật 542/1992 quy định rằng "Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia sẽ không sử dụng các biểu tượng quốc gia của Séc và Cộng hòa Liên bang Slovak sau khi giải thể. ") và giữ quốc kỳ Tiệp Khắc, với một ý nghĩa đã thay đổi.[12] Slovakia, trong khi đó đã thông qua lá cờ truyền thống của mình; tuy nhiên, ngay trước khi độc lập, vào ngày 3 tháng 9 năm 1992, quốc huy nước này đã được thêm vào để tránh nhầm lẫn với các lá cờ tương tự của Nga và Slovenia.

Lãnh thổ quốc gia giữa hai nước được phân chia dọc theo biên giới nội bộ hiện có, nhưng biên giới không được xác định rõ ràng ở một số điểm và ở một số khu vực, biên giới cắt ngang qua các đường phố, đường đi và cộng đồng đã tồn tại hàng thế kỷ. Các vấn đề nghiêm trọng nhất xảy ra xung quanh các khu vực sau:

Hai quốc gia mới đã giải quyết những khó khăn thông qua đàm phán với nhau, bồi thường tài chính và sau đó là một hiệp ước quốc tế về sửa đổi biên giới.[13]

Tuy nhiên, những người sống hoặc sở hữu tài sản ở khu vực biên giới tiếp tục gặp phải các vấn đề thực tế cho đến khi cả hai quốc gia mới tham gia Khu vực Hiệp định Schengen vào năm 2007, khi biên giới trở nên ít quan trọng hơn.

Hầu hết tài sản liên bang được chia theo tỷ lệ 2:1, tỷ lệ gần đúng giữa dân số Séc và Slovakia ở Tiệp Khắc, bao gồm thiết bị quân đội, cơ sở hạ tầng đường sắt và máy bay. Một số tranh chấp nhỏ, chẳng hạn như dự trữ vàng được lưu trữ ở Praha và cách thức định giá của liên bang, kéo dài vài năm sau khi Tiệp Khắc giải thể.

Ban đầu, tiền tệ cũ của Tiệp Khắc, koruna Tiệp Khắc, vẫn được cả hai quốc gia sử dụng. Những lo ngại về thiệt hại kinh tế của Séc đã khiến việc áp dụng hai loại tiền tệ quốc gia sớm được áp dụng vào ngày 8 tháng 2 năm 1993. Vào thời kỳ đầu, các đồng tiền có tỷ giá hối đoái ngang nhau, nhưng giá trị của koruna Slovak sau đó thường thấp hơn koruna Séc (vào năm 2004, thấp hơn khoảng 25–27%). Vào ngày 2 tháng 8 năm 1993, cả hai loại tiền được phân biệt bằng các con tem khác nhau, lần đầu tiên được dán lên và sau đó được in trên tiền giấy koruna cũ của Tiệp Khắc.[14]

Vào ngày 1 tháng 1 năm 2009, Slovakia đã sử dụng đồng euro làm tiền tệ của mình với tỷ giá hối đoái là 30.126 SK/€ và đồng xu €2 kỷ niệm năm 2009, đồng xu đầu tiên của Slovakia, đặc trưng cho lễ kỷ niệm 20 năm Cách mạng Nhung để tưởng nhớ cuộc đấu tranh chung của người Czechslovakia ủng hộ dân chủ.[15] Như một định mệnh kỳ lạ, bài phát biểu chào mừng đại diện cho Liên minh Châu Âu nhân dịp Slovakia gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu đã được Mirek Topolánek, thủ tướng của nước chủ trì, Cộng hòa Séc, phát biểu một cách tự nhiên bằng tiếng mẹ đẻ, trong khi những vị khách mời khác lại sử dụng tiếng Anh. Cộng hòa Séc tiếp tục sử dụng koruna Séc làm đơn vị tiền tệ.

Cả Cộng hòa Séc và Slovakia đều không tìm kiếm sự công nhận là quốc gia kế thừa duy nhất của Tiệp Khắc. Điều này có thể trái ngược với sự tan rã của Liên bang Xô viết, khi Liên bang Nga được công nhận là quốc gia kế thừa không chỉ của nước Nga XHCN mà còn của cả Liên bang Xô viết . Do đó, tư cách thành viên của Tiệp Khắc trong Liên Hợp Quốc chấm dứt sau khi đất nước này bị giải thể, nhưng vào ngày 19 tháng 1 năm 1993, Cộng hòa Séc và Slovakia đã được đưa vào LHQ như là các quốc gia mới, riêng biệt.

Đối với các điều ước quốc tế khác, Séc và Slovakia đồng ý tôn trọng các nghĩa vụ trong hiệp ước của Tiệp Khắc. Người Slovakia đã chuyển một lá thư tới Tổng thư ký Liên hợp quốc vào ngày 19 tháng 5 năm 1993, bày tỏ ý định tiếp tục là một bên của tất cả các hiệp ước mà Tiệp Khắc đã ký và phê chuẩn, đồng thời phê chuẩn các hiệp ước đã ký nhưng chưa được phê chuẩn trước khi giải thể Tiệp Khắc. Bức thư thừa nhận rằng theo luật pháp quốc tế, tất cả các hiệp ước mà Tiệp Khắc đã ký và phê chuẩn sẽ vẫn có hiệu lực. Ví dụ, cả hai nước đều được công nhận là bên ký kết Hiệp ước Nam Cực kể từ ngày Tiệp Khắc ký hiệp định năm 1962.

Cả hai quốc gia đều đã phê chuẩn Công ước Vienna về sự kế vị của các quốc gia đối với các Hiệp ước, nhưng nó không phải là một yếu tố dẫn đến việc giải thể Tiệp Khắc vì nó không có hiệu lực cho đến năm 1996.

Việc phân chia đã có một số tác động tiêu cực đến hai nền kinh tế, đặc biệt là vào năm 1993, khi các liên kết truyền thống bị cắt đứt để phù hợp với bộ máy quan liêu của thương mại quốc tế, nhưng tác động là ít hơn đáng kể so với dự kiến của nhiều người.[cần dẫn nguồn]

Liên minh thuế quan giữa Cộng hòa Séc và Slovakia vẫn duy trì từ khi giải thể cho đến ngày 1 tháng 5 năm 2004, khi cả hai nước gia nhập Liên minh Châu Âu.[cần dẫn nguồn]

Nhiều người Séc hy vọng rằng việc giải thể sẽ nhanh chóng bắt đầu một kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế cao ở Cộng hòa Séc, khi Séc không còn phải tài trợ cho "Slovakia kém phát triển". Tương tự, những người khác trông đợi một Slovakia độc lập chưa được khai thác có thể trở thành một "con hổ kinh tế" mới.[cần dẫn nguồn]

Theo tờ The Prague Post, "GDP của Slovakia đạt 95% GDP của Séc, và có khả năng sẽ tăng cùng mức với nó. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Slovakia, bao gồm thu nhập của công dân ở nước ngoài và trừ tiền các công ty đa quốc gia chuyển ra khỏi đất nước này, cao hơn so với Séc. Lương hưu cho người già ít nhiều ở mức tương đương ở cả hai nước và mức tiêu dùng bình quân đầu người cao hơn một chút ở Slovakia. Tuy nhiên, mức lương trung bình ở Slovakia thấp hơn 10% so với ở Cộng hòa Séc".[16]

Tuy nhiên, Martin Filko, người đứng đầu Viện Chính sách Tài chính của Bộ Tài chính Slovakia, chỉ ra rằng Slovakia nằm trong số các quốc gia EU có mức lương thấp nhất trong GDP. Nói cách khác, thu nhập của một số người đến từ các nguồn khác ngoài việc làm chính của họ, điều này làm giảm chênh lệch thực tế giữa lương của người Séc và người Slovakia.[cần dẫn nguồn]

Slovakia có sự ổn định chính trị cao hơn Cộng hòa Séc. Tính đến năm 2018, người Slovakia chỉ có 4 thủ tướng kể từ năm 1998, nhưng người Séc đã có 10 thủ tướng. Người Slovakia đã trở thành một phần không thể thiếu của EU do họ chấp nhận đồng euro và quyết tâm hơn khi tham gia vào các liên minh tài chính và ngân hàng. Ở Cộng hòa Séc, cánh hữu đã mở cửa nền kinh tế, và cánh tả đã tư nhân hóa các ngân hàng và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.[cần dẫn nguồn]

Cho đến năm 2005, GDP của hai nước đang tăng với tốc độ tương đương. Tuy nhiên, từ năm 2005 đến 2008, nền kinh tế Slovakia tăng trưởng nhanh hơn nền kinh tế Séc. Các nhà kinh tế đồng ý rằng sự tăng trưởng này là do các cải cách cánh hữu của chính phủ Mikuláš Dzurinda và lời hứa sử dụng đồng euro, đã thu hút các nhà đầu tư.[cần dẫn nguồn]

Khi nhà dân túy cánh tả Robert Fico thay thế Dzurinda làm thủ tướng Slovakia sau 8 năm vào năm 2006, ông chỉ giảm vừa phải các cải cách của cánh hữu, nhưng ông không bãi bỏ chúng, không giống như Đảng Dân chủ Xã hội Séc (ČSSD).[cần dẫn nguồn]

Trong khi đó, Séc có ba thủ tướng ČSSD trong bốn năm (2002–06), tiếp theo là một nội các trung hữu đang lung lay, cắt giảm và đơn giản hóa thuế nhưng không thúc đẩy được các cải cách khác và không muốn áp dụng đồng euro vì khủng hoảng tài chính và lập trường tư tưởng của Đảng Dân chủ Công dân.[cần dẫn nguồn]

Người dân tại một khu đô thị Hà Nội phải xếp hàng để chờ lấy nước sạch trong các bồn chứa nước chở từ nơi khác tới vì Viwasupco ngừng cung cấp nước - Ảnh: THÀNH CHUNG

Ngày 14-10, Công ty cổ phần Viwaco vừa có thông báo về tình trạng mực nước sông Đà hạ thấp phía hạ lưu đập thủy điện Hòa Bình, dẫn tới việc giảm áp trên đường ống cấp nước sông Đà.

Theo Viwaco, ngày 13-10, công ty nhận được văn bản của Công ty cổ phần đầu tư nước sạch Sông Đà (Viwasupco) về việc tình trạng mực nước sông Đà hạ thấp phía hạ lưu đập thủy điện Hòa Bình.

Trước thực tế trên, phía Viwasupco sẽ điều tiết giảm áp lực và lưu lượng đối với khách hàng trên toàn bộ hệ thống nước sông Đà từ ngà 13-10 cho đến khi hệ thống làm việc ổn định trở lại.

Do đó, Viwaco thông báo tới khách hàng sử dụng nước sông Đà địa bàn phía tây nam TP Hà Nội (nơi đơn vị cung cấp nước) sẽ giảm áp lực cấp nước, dẫn đến một số khu vực nước yếu hoặc thiếu nước sạch.

Viwaco cho biết sẽ cố gắng điều tiết nước phù hợp, tuy nhiên không tránh khỏi sẽ có khu vực bị mất nước.

Việc mất nước diễn ra từ ngày 13-10 - Ảnh: THÀNH CHUNG

Ghi nhận của Tuổi Trẻ Online trong ngày 14-10, tại nhiều khu đô thị phía tây Hà Nội dùng nước sạch do Viwasupco cung cấp đã bị mất nước. Nhiều người dân phải xếp hàng để chờ lấy nước sạch trong các bồn bơm từ bể chứa nước lên.

Đại diện Công ty cổ phần đầu tư nước sạch Sông Đà cho biết vừa qua nước trong hồ chứa Đầm Bài dẫn vào Nhà máy nước sạch Sông Đà xuống thấp khiến cho việc lấy nước gặp khó khăn. Đây là nguyên nhân khiến cho công ty phải giảm cấp nước.

"Đợt nước dâng cao vừa qua khiến cho máy bơm cưỡng bức bị ngập, hỏng hóc. Chúng tôi đã xử lý khắc phục sự cố này trong 2 ngày vừa qua, dự kiến trong ngày hôm nay (14-10) máy bơm sẽ hoạt động trở lại, cung cấp nước ổn định cho người dân" - đại diện Viwasupco khẳng định.