A. cận nhiệt địa trung hải, cảnh quan chủ yếu là rừng lá cứng.
A. cận nhiệt địa trung hải, cảnh quan chủ yếu là rừng lá cứng.
Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và cũng là cường quốc dẫn đầu trong ngành CNTT với thung lũng Silicon – nơi hội tụ nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Apple, Microsoft, Meta, Google, Intel… Nước này cũng là ngôi nhà của nhiều trường đại học danh tiếng trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Ngành CNTT tại Hoa Kỳ không ngừng tiến bộ và mở rộng, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn đến thị trường công nghệ toàn cầu.
Hoa Kỳ là “cái nôi” của hàng loạt phát minh công nghệ hiện đại và sáng kiến thế kỷ (Ảnh: Internet)
Nhật Bản là một trong những quốc gia có ngành CNTT phát triển lâu đời và mạnh mẽ nhất thế giới. Nước này là quê hương của các tập đoàn công nghệ hàng đầu như Sony, Panasonic, Fujitsu…
Nhật Bản đã không ngừng đổi mới và phát triển các sản phẩm công nghệ cao, từ thiết bị điện tử tiêu dùng đến hệ thống tự động hóa công nghiệp. Chính phủ Nhật Bản không ngừng đẩy mạnh chiến lược ưu tiên đầu tư vào phát triển hạ tầng kỹ thuật số, đã mang về những thành quả lớn, không chỉ cho người dân Nhật bản mà còn cho cả thế giới.
Hàn Quốc nổi tiếng là quốc gia có ngành CNTT phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và viễn thông. Quốc gia này là quê hương của các công ty công nghệ khổng lồ như Samsung, Hyundai, LG…, nổi bật với các sản phẩm điện thoại thông minh và các thiết bị gia dụng tân tiến.
Hàn Quốc cũng là quốc gia tiên phong trong việc triển khai mạng 5G và đang có kế hoạch ra mắt công nghệ mạng di động 6G đầu tiên vào năm 2028. Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ mạnh mẽ cho các chương trình đầu tư CNTT và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đưa nước này trở thành trung tâm công nghệ quan trọng không chỉ ở Châu Á mà còn có sức ảnh hưởng rộng lớn trên toàn cầu.
Trong những thập kỷ qua, Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành cường quốc CNTT với hàng loạt những dấu ấn đậm nét, nước này đang có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến ngành công nghệ toàn cầu. Hàng loạt công ty công nghệ đình đám không thể không nhắc đến ở Trung Quốc như Huawei, Alibaba, Oppo…
Hiện nay, Trung Quốc đang đầu tư mạnh mẽ vào các công nghệ tiên tiến như ngành chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử và siêu máy tính. Trung Quốc đang trên hành trình thực hiện khát vọng trở thành bá chủ thế giới ở lĩnh vực CNTT khi đang có tiềm năng kinh tế và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Công nghiệp chip bán dẫn là lĩnh vực đang phát triển thịnh vượng tại Trung Quốc (Ảnh: Internet)
Vương Quốc Anh là trung tâm quan trọng của ngành CNTT tại châu Âu, với London được biết đến như một trung tâm tài chính và công nghệ toàn cầu. Ngành CNTT của Vương Quốc Anh rất phát triển trong lĩnh vực an ninh mạng và bảo mật dữ liệu, với nhiều công ty chuyên về các giải pháp bảo vệ thông tin và quản lý rủi ro.
Singapore được biết đến là trung tâm CNTT phát triển nhanh chóng, được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của Châu Á. Thành phố này cũng là nơi tập trung của nhiều công ty công nghệ toàn cầu, làm cho quốc gia này trở thành một trung tâm sáng tạo công nghệ quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Sự phát triển của CNTT đã biến Singapore trở thành quốc gia thông minh và hiện đại trên thế giới (Ảnh: Internet)
Sự phát triển của CNTT không những mang lại lợi ích kinh tế khổng lồ mà còn mở ra những cơ hội phát triển mới cho nhân loại trong kỷ nguyên số hóa. Để nắm bắt được tiềm năng to lớn này, việc đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu và phát triển ngành CNTT là vô cùng quan trọng. Đừng quên theo dõi các bài viết tiếp theo của Học Viện Công Nghệ Thông Tin để cập nhật thêm nhiều thông tin và giải pháp công nghệ tiên tiến nhất hiện nay.
CNTT đã và đang phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới, mang lại nhiều đổi mới và cải tiến trong các lĩnh vực như kinh tế, tài chính, thương mại, y tế, giáo dục, giải trí… Trên toàn cầu, các quốc gia đã không ngừng phát triển và ứng dụng các sản phẩm công nghệ hiện đại như AI, loT, blockchain… để thống trị mọi hoạt động trong hệ sinh thái công nghệ số.
CNTT là lĩnh vực then chốt, quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia (Ảnh: Internet)
So với nhiều năm trước, ngành CNTT tại Việt Nam đã có bước nhảy vọt lớn và đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Hiện nay, ngành CNTT đã chiếm tới 14,4% GDP của cả nước. Việt Nam đã bắt đầu tạo ra những dấu ấn của mình trên thị trường quốc tế, trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư công nghệ. Chính phủ, doanh nghiệp, các công ty đang nỗ lực đầu tư vào cơ sở hạ tầng ngành CNTT. Để thực hiện được mục tiêu bền vững, các tổ chức luôn cần số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là ở các vị trí lập trình, khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo…
b) Phần nhiều các nước châu Á là các nước
C. có thu nhập bình quân đầu người cao,
Tác động của biến đổi khí hậu tới các nước đang phát triểnTrong khi biến đổi khí hậu (nắng nóng, hạn hán và mưa lớn...) tác động có mức độ tới các nền kinh tế phát triển thì nó lại là hiểm họa đối với nhiều nước đang phát triển bởi nó ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp và cuộc sống an sinh xã hội của người dân nơi đây.Biến đổi khí hậu gây thiệt hại kinh tế, suy giảm GDP Thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra lên tới 125 tỷ USD/năm, cao hơn tổng số tiền viện trợ của các nước phát triển dành cho các nước nghèo trên thế giới. Và mức tổn thất này có thể sẽ lên tới 600 tỷ USD/năm vào năm 2030. Hậu quả của việc sử dụng quá mức nhiên liệu hóa thạch, gây nên lượng khí thải các-bon đi-ô-xít (CO2) tăng, khiến chính phủ các nước phải hỗ trợ khoảng 150 tỷ USD/năm. Khoản chi phí này đã cản trở việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh dựa vào năng lượng tái tạo. Nếu bỏ được khoản chi phí này, GDP toàn cầu có thể tăng thêm 0,1% mỗi năm và điều quan trọng là lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính có thể giảm đến 6%/năm. Các quốc gia đang phát triển sẽ phải hứng chịu phần lớn thiệt hại về kinh tế do thiếu cơ sở vật chất bảo vệ, điều kiện kinh tế bấp bênh và năng lực tài chính cũng như thiết bị chống biến đổi khí hậu hạn chế.Theo Ủy ban Kinh tế Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê của Liên hợp quốc (ECLAC), thiệt hại hằng năm do thiên tai ở khu vực này vào khoảng 8,6 tỷ USD trong giai đoạn 2000 - 2008. Nếu không có các biện pháp ứng phó, thiệt hại do biến đổi khí hậu năm 2100 của khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê sẽ chiếm tới 137% GDP (khoảng 250 tỷ USD). Mức thiệt hại trung bình do biến đổi khí hậu gây ra đối với 4 nước đang phát triển Đông Nam Á (In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan và Việt Nam) tương đương 6,7% GDP vào năm 2100, tức gấp đôi mức thiệt hại trung bình trên thế giới. GDP của các nước châu Phi và Ðông Á sẽ thiệt hại từ 4%-5% nếu nhiệt độ trái đất tăng 2 độ C.Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nhiều của biến đổi khí hậu do đặc điểm có bờ biển dài và các vùng châu thổ đất thấp dễ bị ảnh hưởng của bão, lốc, lượng mưa cao và thất thường. Trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, mỗi năm Việt Nam thiệt hại từ 1%-1,5% GDP do biến đổi khí hậu. Theo dự báo của các nhà khoa học, mực nước biển sẽ dâng lên 5cm mỗi năm và nếu nước biển dâng 1m sẽ làm giảm 7% sản luợng nông nghiệp và 10% GDP và nếu dâng lên từ 3-5 m thì điều này đồng nghĩa với " thảm họa sẽ xảy ra" ở Việt Nam. Biến đổi khí hậu làm giảm sản lượng lương thực, tăng nghèo đóiBiến đổi khí hậu làm sản lượng nông nghiệp bấp bênh, đẩy hàng trăm triệu người có thể lâm vào nghèo đói. Châu Phi có nguy cơ mất 30% sản lượng ngô vào năm 2030 do biến đổi khí hậu. Tình trạng khí hậu nóng lên làm giảm năng suất các vụ mùa tại nhiều khu vực trên thế giới. Theo đánh giá của Ngân hàng châu Á (ADB), nếu nhiệt độ bình quân tăng lên 1độ C thì năng suất lúa sẽ giảm 10%, sản lượng gạo có thể giảm 50% cho đến năm 2100 và điều này vô cùng quan trọng với những quốc gia như Việt Nam, Thái Lan. Thực trạng này sẽ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và ảnh hưởng đến hàng trăm triệu người ở các nước đang phát triển, bởi vì cứ 1 tỷ người dân có mức sống dưới 1USD/ ngày thì có đến 750 triệu người phụ thuộc vào nông nghiệp. Theo WB, chỉ cần nhiệt độ trái đất tăng lên thêm 2 độ C cũng có thể khiến 400 triệu người có nguy cơ bị đói và 2 tỷ người thiếu nước dùng. Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến thời vụ sản xuất nông nghiệp, làm thay đổi cấu trúc mùa, quy hoạch vùng, kỹ thuật tưới tiêu. Sự thay đổi thời tiết dẫn đến phát sinh bệnh mới đối với trồng trọt và chăn nuôi và có nguy cơ phát triển thành đại dịch bệnh.Thời tiết khắc nghiệt ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp và làm tăng giá lương thực chủ yếu là ngũ cốc - một loại lương thực rất quan trọng đối với các hộ dân nghèo ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của WB, giá gạo ở Mum-bai (Ấn Độ) đã tăng 25% vào tháng 8-2009 do những cơn mưa như trút nước vào đúng thời điểm thu hoạch lúa. Sản lượng lúa gạo của Ấn Độ cũng bị giảm 17 triệu tấn so với mức thu hoạch được 82 triệu tấn năm 2008. Bão Ketsana và Parma hồi tháng 10-2009 đã khiến cánh đồng lúa đang chờ thu hoạch của Phi-líp-pin bị ngập nước, làm giảm 1 triệu tấn lúa gạo và buộc nước này phải mua thêm 300.000 tấn gạo trên thị trường thế giới.Hiện nay trên thế giới có khoảng 3 tỷ người đang sống trong các khu vực khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đến cuối thế kỷ XXI, con số này sẽ tăng lên gấp đôi. Và với tác động không ngừng của biến đổi khí hậu, trong một thời gian nữa, hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu lương thực và thực phẩm. Các quốc gia Băng-la-đét, Mê-hi-cô, và Cộng hòa Dăm-bi-a có tỷ lệ dân số lâm vào cảnh nghèo lớn nhất, với tỷ lệ lần lượt là 1,4%, 1,8% và 4,6% mỗi năm bởi các vấn nạn về khí hậu. Điều này đồng nghĩa với việc thế giới sẽ có thêm 1,8 triệu người bị bần cùng hóa ở Băng-la-đét, Mê-hi-cô và có thêm nửa triệu người ở Cộng hòa Dăm-bi-a. Biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng đến tính mạng, tài sản và an sinh xã hội của người dânTheo Chương trình phát triển (UNDP) của Liên hợp quốc, hằng năm biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng đến 262 triệu người, trong đó phần lớn thuộc các nước đang phát triển và nó đang trở thành thảm họa lớn nhất của nhân loại. Năm 2008, số người bị mất nhà cửa do thiên tai như bão, lũ, động đất.... đã lên tới 36 triệu người (gấp 4 lần so với số người bị mất nhà cửa trong các cuộc xung đột và chiến tranh trên toàn cầu). Số người bị tác động bởi hạn hán, nước biển dâng cao... thậm chí còn lớn hơn nhiều. Việt Nam, In-đô-nê-xi-a là những quốc gia đang phát triển phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, của nhiệt độ tăng cao và lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Biến đổi khí hậu đã làm mực nước biển dâng khiến In-đô-nê-xi-a mất đi một số lượng lớn các đảo, trong khi vùng duyên hải của Việt Nam cũng có nguy cơ bị nước biển “xóa sổ” hoàn toàn. Hằng năm, bão lũ ở Đông Nam Á đã khiến hàng nghìn người thiệt mạng, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ USD. Trận động đất hồi tháng 10-2009 tại In-đô-nê-xi-a làm hơn 1.100 người thiệt mạng và gần 4.000 người bị chôn vùi trong đống đổ nát, hàng chục nghìn người bị mất nhà cửa và hàng trăm triệu người phải di cư tìm đất sống. Nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu cũng sẽ làm mất đi 12,2% diện tích đất của Việt Nam, đe dọa nơi sinh sống và sản xuất của 17 triệu người. Nếu nước biển dâng cao 1m, sẽ làm ngập 0,5 triệu ha lúa ở đồng bằng sông Hồng, và 1,5-2 triệu ha lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. Lũ lớn cũng làm cho 90% diện tích của khu vực đồng bằng sông Cửu Long bị ngập từ 4-5 tháng mỗi năm. Ngược lại, mùa khô lượng nước ở khu vực này lại giảm 29% gây ra tình trạng hạn hán trầm trọng. Dự báo, nếu tốc độ thải khí CO2 vẫn tiếp tục diễn ra như hiện nay thì nhiệt độ trung bình trái đất sẽ ấm lên 4 độ C vào năm 2060, đe dọa tới nguồn nước của gần 50 % dân số thế giới, gây thiệt hại rất lớn tới vật nuôi và cây trồng.Giải pháp ứng phó với biển đổi khí hậuKhông phải ngẫu nhiên Hội nghị "Liên kết chống biến đổi khí hậu" diễn ra ở Cô-pen-ha-ghen (Đan Mạch) tháng 12-2009 thu hút được sự quan tâm của mọi quốc gia. Đối phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ cần thiết để thực hiện công bằng xã hội và giảm nghèo. Trên thực tế, hiện các quốc gia trên thế giới đang phối hợp ở các tầng cấp khác nhau thực hiện các giải pháp ứng phó với sự biến đổi khí hậu.Cung cấp rộng rãi hệ thống thông tin, cảnh báo sớm đối với biến đổi khí hậu và phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, tư nhân, các tổ chức phi chính phủĐể đối phó hiệu quả với vấn đề biến đổi khí hậu đòi hỏi công tác dự báo, cảnh báo phải sớm và chính xác. Đây là giải pháp mang tính tập thể. Các quốc gia cần mở rộng mạng lưới quan trắc, bổ sung các trạm quan trắc chất lượng nguồn nước, chất lượng không khí, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ dự báo viên, nâng cấp công tác dự báo thiên tai. Ngoài ra, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ. Khác với nông dân tại các nước phát triển, nông dân ở các nước đang phát triển rất ít được cập nhật về tình trạng khí hậu nơi mình sinh sống và canh tác. Do đó, các giải pháp đến với họ rất khó khăn. Vì vậy, mô hình phối hợp giữa chính quyền địa phương, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ được xem là cần thiết. Giải pháp này đã được áp dụng tại Ê-thi-ô-pi-a và đã cho thấy kết quả tốt. Chương trình tập trung vào ngôi làng A-di Ha, nơi có 40% hộ trồng “teff” - một loại ngũ cốc. Mục đích của chương trình là phát triển cách thức quản lý đối phó với rủi ro, trong đó có cải thiện các giải pháp quản lý đất đai, chuyển giao công nghệ và tăng tính cạnh tranh cho nông sản. Giải pháp này đã giúp nông dân vững tin và chủ động hơn với các vụ mùa, giảm nhẹ tác hại do thiên tai gây ra. Nghiên cứu các giống cây lương thực chịu đựng với thời tiết thay đổi Tình trạng khí hậu nóng lên đã và đang làm giảm năng suất các vụ mùa tại nhiều khu vực trên thế giới. Nhiệt độ trái đất tăng cao, dự báo sẽ làm giảm sản lượng các loại cây lương thực thiết yếu như lúa, lúa mạch từ 20%-40%. Khí hậu nóng lên cũng làm đất mất độ ẩm, khô cằn và dẫn đến nguy cơ mất mùa cao. Vì vậy, cần tập trung đầu tư vào các dự án hạ tầng có quy mô lớn để đối phó với hạn hán, lũ lụt, nắng nóng và mưa lớn đang ngày càng nhiều hơn và với cường độ mạnh hơn. Theo dự báo của các nhà khoa học, thời tiết nóng sẽ thường xuyên xuất hiện trong những thập kỷ tới, do vậy, giải pháp tiếp theo là phải nhanh chóng nghiên cứu các giống cây lương thực có khả năng thích nghi hơn với khí hậu này. Chính vì vậy, tại bang An-đra Pra-đét của Ấn Độ, các nhà khoa học đã giúp người nông dân tìm ra những loại cây trồng có khả năng chịu khô hạn, như cây kê thay vì trồng lúa.Còn tại khu vực Đông Nam Á, quá trình phát triển ven biển, đánh bắt quá mức, sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp và việc dinh dưỡng đất bị cuốn trôi đang khiến khu vực này chịu nhiều sức ép từ ô nhiễm công nghiệp. Theo Ủy ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), 17% khí thải gây hiệu ứng nhà kính được sản sinh từ việc triệt phá rừng. Đây là nguồn khí thải độc hại lớn thứ 2 sau nhiên liệu hóa thạch. Nếu không có giải pháp ngăn chặn triệt để việc phá rừng (nhất là rừng nhiệt đới), lượng khí thải CO2 thoát ra sẽ tăng rất lớn, thậm chí vượt lượng khí thải của nhiên liệu hóa thạch nhiều lần. Vì vậy, việc trồng rừng và tăng cường quản lý rừng sẽ giúp giảm trừ lượng khí thải, giảm nhiệt độ không khí và quan trọng là giảm trừ được thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. Chuyển đổi các hệ thống năng lượng theo hướng sử dụng hiệu quả hơn và công nghệ tiêu thụ các-bon thấp hơnSự tăng trưởng kinh tế cao của các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á kèm theo mật độ đô thị hóa dày, nạn chặt phá rừng bừa bãi và những thay đổi đáng kể về mục đích sử dụng đất đã khiến các nước đang phát triển ở khu vực này phải trả giá đắt về môi trường. Than đá vẫn là nguồn nhiên liệu chính trong khu vực và hầu hết các nước đều có nhu cầu cao về năng lượng phục vụ giao thông vận tải và phát triển đô thị. Nếu cứ tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng kinh tế sử dụng công nghệ các-bon cao sẽ sinh ra nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà kính hơn, và cuối cùng dẫn đến biến đổi khí hậu. Khí các-bon-níc (CO2) là loại khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh nhất. Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế, khí thải CO2 sẽ tăng lên 130% vào năm 2050. Vì vậy, các nước đang phát triển phải thực hiện ngay giải pháp thải ít loại khí này để tránh phải sử dụng hạ tầng kinh tế các-bon cao. Ngoài ra, cộng đồng quốc tế cũng cần tăng cường đầu tư để chuyển dần nền kinh tế toàn cầu sang nền kinh tế thải ít khí các-bon.Giải pháp "cơ chế phát triển sạch" (CDM) cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kínhPhát triển kinh tế cần đi đôi với giảm thiểu khí các-bon, giảm phát thải khí nhà kính. Điều này sẽ giúp làm giảm chi phí để đối phó với thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra từ mức 5% GDP toàn cầu xuống còn khoảng 1% GDP hằng năm. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nếu không cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ trung bình tại khu vực Đông Nam Á sẽ tăng thêm 4,8 độ C đến năm 2100, khiến mực nước biển dâng cao thêm 0,7m. Hậu quả là sản lượng lúa của 4 nước Đông Nam Á gồm Phi-líp-pin, Việt Nam, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a có thể giảm tới 50%. Theo Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) để nhiệt độ trái đất không tăng quá 2 độ C từ nay đến năm 2100, thế giới cần giảm 60% lượng khí thải CO2 liên tục từ nay đến năm 2050.Với giải pháp này, các nước có lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính giảm thiểu sẽ được cấp Chứng chỉ xác nhận giảm phát thải (Certified Emission Reduction - CER) hay còn được gọi là Chứng chỉ các-bon. Khi có loại chứng chỉ này, một nước có thể chuyển nhượng “quyền phát thải” của mình cho các nước khác để được hưởng lợi ích kép (win - win gains). Thu nhập từ việc chuyển nhượng Chứng chỉ các-bon và Thực hiện được “mô hình phát triển sạch”, đồng nghĩa với “phát triển bền vững”. Từ đó “quyền phát thải” trở thành một loại hình tài nguyên mới có ý nghĩa xã hội hơn bất cứ tài nguyên nào. Ðể tăng nguồn tài chính của mình, các nước kém phát triển sẽ phải bán tài nguyên cho các nước phát triển hơn. Mỹ là quốc gia tiêu thụ nhiều dầu nhất thế giới tiếp đến là Trung Quốc và Nhật Bản. Các quốc gia này chắc chắn thuộc nhóm phát thải lớn và họ có nhu cầu mua tài nguyên phát thải của các nước khác, đặc biệt từ các nước có nền công nghiệp kém phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên thụ động chờ đợi việc giảm khí thải nhà kính trên phạm vi toàn cầu, mỗi quốc gia cần phải có một chương trình đủ mạnh để vừa tham gia tích cực nhất vào việc giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, vừa xây dựng hệ thống các công trình hạ tấng kỹ thuật và xã hội.Giải pháp phát triển nhiên liệu sinh học Biofuel là loại nhiên liệu sinh học sử dụng ngũ cốc làm nguyên liệu. Các nước phát triển đang nỗ lực tìm cách thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng nhiên liệu sinh học. Phần lớn lượng ethanol (dùng để chạy xe hơi) sản xuất từ ngũ cốc của Mỹ được dùng để xuất khẩu sang châu Âu, nơi có giá cao hơn ở Mỹ. Hiện nay tồn tại một nghịch lý là trong khi nhiều quốc gia đang phát triển khác, đặc biệt ở châu Phi, nạn đói vẫn đang hoành hành, thì ngũ cốc ở các nước phát triển lại được dùng để sản xuất ethanol chạy xe hơi. Vài thập kỷ gần đây giá lương thực luôn có xu hướng tăng. Vì vậy, nỗ lực sản xuất nhiên liệu sạch và nỗ lực xóa đói giảm nghèo ở các quốc gia đang phát triển cần theo nguyên tắc đồng phát triển (co-development) nhằm đạt sự cân bằng giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển để bảo đảm phát triển bền vững.Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) kêu gọi thế giới cần giảm số lượng phương tiện vận tải sử dụng động cơ nhiên liệu hóa thạch từ mức 95% hiện nay xuống 40% vào năm 2030. Các phương tiện chạy bằng điện và phương tiện hy-brít (vừa chạy bằng điện vừa chạy bằng xăng, dầu) cần chiếm đa số trong các phương tiện mới sản xuất trong 20 năm tới.Thế giới cần đầu tư tới 10 nghìn tỷ USD trong giai đoạn 2010 - 2020 để ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Số tiền khổng lồ này chủ yếu đầu tư vào việc phát triển năng lượng sạch như năng lượng Mặt Trời, xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới và các nguồn năng lượng tái sinh khác để giảm sự nóng lên của Trái đất. Liên hợp quốc đề nghị xây dựng Quỹ Năng lượng sạch toàn cầu để hỗ trợ các nguồn năng lượng tái sinh nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ năng lượng sạch cho các nước đang phát triển. Quá trình này sẽ giúp các nước nghèo tham gia hiệu quả chương trình sản xuất năng lượng sạch mà vẫn đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế. Sự giúp đỡ kinh tế của các nước giàu để ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu có vai trò rất lớn. Tổ chức Viện trợ quốc tế Oxfam kêu gọi các nước phát triển đầu tư 150 tỷ USD/năm cho các chương trình tài trợ cắt giảm khí thải và thích nghi với tình trạng biến đổi khí hậu. Tổ chức Liên hợp quốc cũng đề nghị các nước giàu cần dành ra 500 tỷ USD/năm từ nay đến năm 2030 (khoảng 1% GDP) để hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước nghèo chống biến đổi khí hậu, bởi vì đây là vấn đề toàn cầu, cần có sự chung tay của cộng đồng quốc tế. Số tiền này sẽ giúp chi trả cho những kế hoạch giảm khí thải bằng việc sử dụng các công nghệ tốt hơn cho môi trường, tránh sự thoái hóa rừng và thích ứng với biến đổi khí hậu của các nước đang phát triển./.
Thế giới đã và đang bước đi những bước đi đầu tiên của thế kỷ XXI. Thế kỷ mà hứa hẹn biết bao những cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức, khó khăn cho nền kinh tế các quốc gia. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, những yêu cầu đó lại càng trở nên cấp thiết hơn.Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định về pháp lý, v.v. thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi. Ngày nay khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển thì vai trò của khoa học công nghệ là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này đòi hỏi phải có chính sách khuyến khích và đầu tư đúng đắn cho khoa học công nghệ.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của khoa học và công nghệ ở các nước đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Thế giới đã và đang bước đi những bước đi đầu tiên của thế kỷ XXI. Thế kỷ mà hứa hẹn biết bao những cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức, khó khăn cho nền kinh tế các quốc gia. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, những yêu cầu đó lại càng trở nên cấp thiết hơn.Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định về pháp lý, v.v... thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi. Ngày nay khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển thì vai trò của khoa học công nghệ là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này đòi hỏi phải có chính sách khuyến khích và đầu tư đúng đắn cho khoa học công nghệ. Chính vì những lý do trên, nhóm em xin lựa chọn đề tài “ Vai trò của khoa học và công nghệ ở các nước đang phát triển” để làm rõ vai trò; thực trạng ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển.Từ đó chỉ ra những cơ hội và thách thức đồng thời tìm ra hướng đi mới cho các nước đang phát triển. Do kiến thức còn hạn hẹp nên bài viết còn có nhiều thiếu sót, kính mong cô và các bạn đóng góp ý để bài viết hoàn thiện hơn. PHẦN II: NỘI DUNG I. LÝ LUẬN CHUNG 1. Lý luận về khoa học và công nghệ 1.1. Lý luận về khoa học 1.1.1 Khái niệm về khoa học Khoa học được hiểu là tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư duy được thể hiện bằng những phát minh dưới dạng các lý thuyết, định lý, định luật, và nguyên tắc. Như vậy thực chất của khoa học là sự khám phá các hiện tượng các thuộc tính vốn tồn tại một cách khách quan . Sự khám phá này đã làm thay đổi nhận thức của con người tạo điều kiện nghiên cứu, ứng dụng hiểu biết này vào thực tế. 1.1.2. Đặc điểm khoa học Như ta đã nói khoa học là những phát minh của con người vì những phát minh này không thể trực tiếp áp dụng vào sản xuất nên không có đảm bảo độc quyền không phải là đối tượng để mua và bán .Các tri thức khoa học có thể được phổ biến rộng rãi. Khoa học thường được phân loại theo khoa học tự nhiên và khoa học xã hội . Khoa hoc tự nhiên khám phá nhưng quy luật của tự nhiên xung quanh chúng ta. Khoa học xã hội nghiên cứu cách sống cách hành động và ứng sử của con người. Vậy khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng đưa khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp 2.2. Lý luận về công nghệ 2.2.1. Khái niệm công nghệ Có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghệ tuỳ theo góc độ và mục đích nghiên cứu. Nhưng một cách chung nhất công nghệ được hiểu như sau: Công nghệ là các phương tiện , kỹ năng dùng để thực hiện quá trình sản xuất nhằm biến đổi đầu vào và cho đầu ra là các sản phẩm dịch vụ. Ngày nay công nghệ thường được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm. Phần cứng đó là trang thiết bị máy móc. Phần mềm bao gồm thành phần kỹ năng kỹ xảo của con người, thành phần thông tin, thành phần tổ chức quản lý.Bất kỳ quá trình sản xuất nào đều phải đảm bảo bốn thành phần trên mỗi thành phần đảm nhiệm những chức năng nhất định. 2.2.2. Đặc điểm công nghệ Qua khái niệm về công nghệ ở trên ta thấy. Trước đây cách hiểu truyền thống về công nghệ đồng nhất kỹ thuật với thiết bị không lưu ý với thực tế vận hành, tay nghề của công nhân, năng lực tổ chức quản lý hoạt động sản xuất, do vậy hiện nay thuật ngữ (công nghệ) thường được dùng thay cho thuật ngữ (kỹ thuật) việc hiểu nội dung công nghệ như vậy đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. 1.3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kĩ thuật và sản xuất còn rất yếu, nhưng đã phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất. Khoa học và công nghệ, là kết quả sự vận dụng những hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo cải tiến các công cụ, phương tiệ phục vụ cho sản xuất và các hoạt động khác 1.4. Đổi mới và chuyển giao công nghệ Quá trình đổi mới khoa học công nghệ bao gồm nhiều mặt nhiều dạng hoạt động nhưng tập trung chú ý vào đổi mới công nghệ, nhập công nghệ mới, nắm bắt và đưa công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến và sáng tạo ra công nghệ, công nghệ mới bao gồm các thành phần chính. Thiết bị kĩ thuật phương pháp chế tạo sản phẩm sự am hiểu công nghệ mới, tổ chức, quản lý công nghệ mới quá trình đổi mới công nghệ được diễn ra rộng khắp, từ các doanh nghiệp, các công ty hợp tác xã các ngành các địa phương. Tóm lại có hai hướng đổi mới công nghệ: đó là đổi mới công nghệ sản phẩm và đổi mới quy trình công nghệ sản xuất. 2. Lý luận về các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng ứng dụng khoa học công nghệ 2.1. Nhân tố con người Nhân tố con người là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ và áp dụng khoa học công nghệ vào nền kinh tế các nước đang phát triển. Con người là chủ thể sáng tạo ra khoa học công nghệ. đến lượt khoa học công nghệ lai trở thành phương tiện công cụ và đồng thời cũng là cơ sở để con người vươn lên hoàn thiện mình về mọi mặt, đặc là mặt năng lực trí tuệ. 2.2. Giáo dục và đào tạo Giáo dục và đào tạo giữ một vai trò quan trọng trong việc áp dụng khoa học công nghệ vào nền kinh tế. Trong thời buổi ngày nay, một phát minh sáng chế khoa học công nghệ, hôm nay còn được xem là tân tiến, là hiện đại song có thể chỉ qua vài năm, vài tháng thậm chí là vài tuần đã bị lạc hậu. Chính vì vậy để có thể nắm bắt được kịp thời những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, đòi hỏi ở đội ngũ những người nghiên cứu triển khai và ứng dụng khoa học công nghệ phải được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống, và phải thường xuyên được đào tạo chuyên sâu và đào tạo lại. Mọi người đều hiểu rằng để có thể khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người, trước tiên phải tập trung đầu tư, phát triển vào giáo dục và đào tạo, con người ,giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, việc giáo dục đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống trong nhà trường là vô cùng quan trọng; việc giáo dục, đào tạo chuyên sâu vào đào tạo lại trong quá trình hoạt động của con người lại càng quan trọng hơn. kiếm thức mà con người thu nhận trong nhà trường là những tri thức rất cơ bản, nhưng còn rất hạn chế. Hơn nữa trong thời đại ngày nay khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, tri thức khoa học công nghệ thường xuyên đổi mới, nếu các nhà chuyên môn không được đào tạo lại, đào tạo bổ sung họ không tránh được sự lạc hậu và dễ dàng bị đào thải. 2.3. Đội ngũ cán bộ khoa học và nguồn lao động có tay nghề cao Đội ngũ cán bộ khoa học và nguồn lao động có tay nghề cao có một vai trò quan trọng. Bởi họ chính là bởi vì họ là thành phần trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất, kinh doanh và nghiệp vụ trực tiếp vần hành điều khiển các trang thiết bị máy móc hiện đại. Sự hiểu biết trình độ chuyên môn về ngành nghề của họ có vai trò quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử dụng của máy móc trang thiết bị kĩ thuật cũng như năng xuất và chất lượng của sản phẩm. 2.4. Nguồn vốn cho sự phát triển khoa học và công nghệ Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển khoa học công nghệ và áp dung khoa học công nghệ vào sản xuất. Việc đầu tư vốn vào nhập khẩu chuyển giao công nghệ của các nước đang phát triển còn rất hạn chế do thiếu vốn đầu tư. Do vậy song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kì quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện trước hết ở công tác tổ trức tài trính có nghĩa là phải lựa trọn các phương án tối ưu trong tạo nguồn tài chính. II. THỰC TRẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Trước khi nghiên cứu thực trạng khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển chúng ta cần phải hiểu rõ khoa học công nghệ có vai trò như thế nào đối với các quốc gia ấy. 1. Vai trò của khoa học công nghệ đối với các nước đang phát triển 1.1. Mở rộng khả năng sản xuất Dưới tác động của khoa học và công nghệ, các nguồn lực sản xuất ở các nước đang phát triển sẽ được mở rộng: Mở rộng khả năng phát hiện, khả năng khai thác và khả năng sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Từ đó làm biến đổi chất lượng nguồn lao động, mở rộng khả năng huy động, phân bổ sử dụng các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả. Khoa học công nghệ tạo điều kiện chuyển phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nghĩa là thực hiện tăng trưởng kinh tế dựa trên việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất chứ không phải dựa trên việc sử dụng thêm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Liên hệ ngay trong đất nước Việt Nam chúng ta. Trước 1986, một cơ chế nền kinh tế quan liêu bao cấp, bế quan tỏa cảng, không cho giao lưu hội nhập với các nền kinh tế bên ngoài. Một nền sản xuất tự cung tự cấp là chính. Vì thế khả năng sản xuất bị bó hẹp, sản xuất thủ công, sản phẩm không có tính cạnh tranh. Nền kinh tế tụt hậu, kém phát triển. Từ những năm 1986 trở đi, do nhận thức được vai trò to lớn của hội nhập kinh tế, đất nước ta đã bước sang một trang sử mới. Mở cửa giao lưu với các nền kinh tế khác. Từ đó, nước ta đã có cơ hội giao lưu, học hỏi các nước, chuyển giao khoa học và công nghệ, dẫn đến khả năng sản xuất đã được mở rộng. Sản xuất bắt đầu có sự chuyển biến từ thủ công sang máy móc. Năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm phong phú, đảm bảo chất lượng. Là điều kiện cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. 1.2. Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sự phát triển của khoa học và công nghệ ở các nước đang phát triển đã góp phần phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc và đưa đến phân chia thành nhiều các phân ngành nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Tăng tỷ trọng GDP của ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp.Cơ cấu kinh tế trong nội bộ mỗi ngành cũng thay đổi theo xu hướng ngày càng mở rộng quy mô sản xuất. Vai trò của lao động trí tuệ trong các ngành kinh tế ngày càng được coi trọng. Lấy ví dụ ngay trong ngành công nghiệp của Việt Nam khi có yếu tố khoa học công nghệ cao tác động. Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ khá hiện đại. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác chiếm khoảng 15% tổng giá trị sản xuất toàn ngành, trong đó khai thác dầu khí chiếm 11,2%, công nghiệp chế tác chiếm 79%, trong đó công nghiệp sản xuất thực phẩm chiếm khoảng 23,6% công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước, chiếm khoảng 6% trong đó công nghiệp điện chiếm 5,4%. 1.3. Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và sự phát triển của thị trường Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Muốn vậy phải sản xuất được các sản phẩm có nhu cầu lớn, tối thiểu hóa chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm Những yêu cầu đó chỉ được thực hiện khi áp dụng khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam nhờ có sự ứng dụng của khoa hoc công nghệ đã làm cho các mặt hàng trở nên đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Cùng một loại sản phẩm nhưng có rất nhiều các mặt hàng khác nhau với mẫu mã khác nhau. Ví dụ như có rất nhiều các sản phẩm về dầu gội đầu : DOVE, SUNSILk, CLEAR, PENTEN,không kể đến những sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Từ đó tạo ra sức cạnh tranh tương đối lớn không chỉ thị trường trong nước mà còn trên cả thị trường quốc tế. Từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. 1.4. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Trước kia, khi khoa học và công nghệ chưa phát triển thì yếu tố quyết định tăng trưởng và phát triển kinh tế đó chính là : Vốn, đất đai, lao động. Cho đến ngày nay, tăng trưởng và phát triển kinh tế lại phụ thuộc chủ yếu vào việc triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. 2. Những thành tựu đạt được của việc ứng dụng khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển 2.1.Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển. Năng lực công nghệ ở các nước đang phát triển hoàn toàn không giống nhau, một trong những dấu hiệu quan trọng chỉ ra điều đó là số lượng các bằng sáng chế.Một phân tích đơn giản thông qua số bằng sáng chế được cấp tại Mỹ cho thấy, tỉ lệ bằng sáng chế ở các nước đang phát triển đang tăng lên.Qua đây, có thể thấy rằng, tiềm năng sản sinh công nghệ mới ở các nước đang phát triển đang tăng lên(năm 2001:773,2002:950,2003:1077 bằng sáng chế). Theo đó,với 11 quốc gia đang phát triển và vùng lãnh thổ đã có những nổ lực đáng kể để có những đổi mới công nghệ có thể cấp bằng sáng chế: Argentina, Barazil và Mexico ở Mỹ latinh, Nam Phi của lục địa đen, Ấn Độ, Trung Quốc, đặc khu Hồng Koong, Singapore, Malaysia, lãnh thổ đài loan và Hàn quốc ở Châu Á. Với 11 quốc gia và vùng lãnh thổ trên có thể chia ra làm 3 nhóm: Nhóm dẫn đầu là những con hổ Châu Á- Hàn quốc và lãnh thổ Đài Loan. Nhóm thứ 2 gồm: Singapore và đặc khu Hồng Koong. Nhóm cuối cùng là 7 Quốc Gia còn lại: Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Brazil, Nam Phi, Argentina, Mexico. Mặc dù tổng số các bằng sáng chế còn nhỏ song con số bằng sáng chế thuộc các nước trong 3 nhóm trên đang tăng nhanh chóng, và những nước này đang dần trở thành những Quốc Gia sáng tạo công nghệ mới đầy tiềm năng. 2.2. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn. Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế. Hàng nghìn các kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng rộng rãi, đã và đang trở thành đòn bẩy thúc đẩy các nước phát triển kinh tế xã hội.Tỉ trọng các ngành dịch vụ dựa trên công nghệ cao trong nền kinh tế ngày càng tăng. Khoa học công nghệ tham gia ngày càng trực tiếp vào quá trình sản xuất, tạo điều kiện mở rộng thị trường toàn thế giới. Khoa học công nghệ đã áp dụng tạo ra nhiều thành công trong nhiều lĩnh vực. Ở Việt Nam, trong nông nghiệp, khoa học công nghệ đóng vai trò lớn về lai tạo, nhân giống cây trồng mới, tăng năng suất cây trồng, thay thế giống nhập ngoại. Đến nay, hơn 170 giống lúa được công nhận, trong đó có nhiều giống lúa lai tốt như VL20, TH3-3, TH304, HY83, HYT92, HYT100. Chỉ riêng Viện lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long đã chọn tạo và đưa vào sản xuất 114 giống lúa, trong đó 45 giống được công nhận chính thức. Gần 90% diện tích đất được trồng bằng các giống lúa cải tiến. Năng suất lúa bình quân năm 2007 đạt 49,5 tạ/ha, gấp 2,4 lần năm 1980 và năm 2010 đạt trên 52,3 tạ/ha, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực triền miên đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Ngoài ra, viện còn xây dựng được 11 quy trình kỹ thuật được công nhận ở Cấp Quốc Gia, trong đó có 5 quy trình kỹ thuật canh tác lúa, 2 quy trình kỹ thuật canh tác cây trồng cạn luân canh với lúa và 4 quy trình phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng. Việc ứng dụng công nghệ mới giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng giá trị sản xuất, đưa nước ta vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hạt tiêu, điều, cao su Với thủy sản, đóng góp lớn nhất của khoa học và công nghệ là sản xuât giống, công nghệ nuôi trồng, chế biến giúp tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài ra, về lĩnh vực y học, năng lựơng nguyên tử, công nghệ thông tin cũng có nhiều thành tựu đáng kể. Kết quả phân tích của Ngân hàng Thế giới cho thấy tiến bộ khoa học công nghệ đã đóng góp hơn 30% vào tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Như ở Việt Nam: Theo tài liệu của TS Cù Chí Lợi, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện Khoa học - Xã hội Việt Nam): Ở nước ta, trong thời kỳ 1998-2002, tỉ trọng đóng góp của yếu tố KH&CN vào tăng trưởng GDP đã chiếm hơn 23%, kéo mức thu nhập bình quân đầu người từ vài trăm USD đạt ngưỡng 1.000USD.s 2.3. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ từng bước được đổi mới. Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học công nghệ được tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương. Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án khoa hoc công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học công nghệ đã bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai. Hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học công nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học công nghệ bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học công nghệ được mở rộng. Vốn huy động cho khoa học công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất - kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho khoa học công nghệ việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian .Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học công nghệ hiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. 2.4. Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đối với các nước đang phát triển, khoa học công nghệ được ứng dụng ở hầu hết nhiều lĩnh vực khác nhau trong hoạt động kinh tế. Có thể nói, ứng dụng khoa học công nghệ đóng vai trò rất lớn trong hoạt động sản xuất. Người dân đã dần nhận thức được vai trò to lớn ấy. Ở Việt Nam, Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức khoa học công nghệ tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học công nghệ đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học công nghệ ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước. Tại liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam phối hợp UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức trong 2 ngày 12 và 13 tại Quảng Ninh, Giáo sư Đặng Vũ Minh, Ủy viên TW Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban khoa học công nghệ và môi trường Quốc Hội, chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Tiến sỹ Lê Đình Tiến, Thứ Trưởng Bộ khoa học và công nghệ đã nêu bật vai trò của ứng dụng khoa học công nghệ vào cuộc sống và vai trò của khoa học công nghệ với sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. 3. Những tồn tại hạn và chế về việc ứng dụng khoa học và công nghệ ở các nước đang phát triển và Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung khoa học và công nghệ ở các nước đang phát triển vẫn còn nhiều mặt yếu kém,nói chung còn có khoảng cách khá xa so với các nước phát triển trên thế